(VNmorningnews) − Nhạc bolero của Cuba và Mexico được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Theo trang BNN, UNESCO đưa ra quyết định trên tại phiên họp ở thành phố Kasane, Botswana, ngày 5/12. Ủy ban UNESCO đánh giá bolero của Mexico, Cuba có ý nghĩa văn hóa sâu sắc, phổ biến lâu dài.

Hồ sơ đề cử bolero do hai nước Mexico, Cuba cùng thực hiện, trình lên tổ chức từ năm ngoái. Họ thực hiện video dài 10 phút, giới thiệu các nghệ sĩ của hai nước, đồng thời trình bày kế hoạch bảo tồn, phát triển dòng nhạc trong tương lai. Bộ trưởng Văn hóa Mexico, Alejandra Frausto, từng ca ngợi bolero có khả năng truyền tải cảm xúc một cách tuyệt vời.

bolero-la-di-san-van-hoa-phi-vat-the-cua-nhan-loai-2

Ngoài ra, hai nước cũng tạo ra cộng đồng luyện tập nhạc bolero. Ở Cuba, nhiều câu lạc bộ sinh hoạt mỗi tuần một lần. Ở Mexico, các nghệ sĩ tập trung chủ yếu ở thủ đô Mexico, bán đảo Yucatán. Quận Tlalpan ở thủ đô Mexico đã xây dựng mô hình “quảng trường bolero”, tổ chức các buổi diễn với mong muốn thu hút thêm nhiều khán giả trẻ.

Đại sứ Cuba tại UNESCO Yahima Esquivel khẳng định Bolero không chỉ là một loại hình nghệ thuật mà còn là sự pha trộn giữa các nền văn hóa và ngôn ngữ, giữa văn hóa châu Âu, nhịp điệu châu Phi và bản sắc Mỹ Latinh. Bolero là đại diện cho những khúc nhạc tình Mỹ Latinh có tầm ảnh hưởng vượt biên giới khu vực.

Bolero là một loại hình thanh nhạc, nhạc cụ và khiêu vũ bắt nguồn từ thành phố Santiago de Cuba từ cuối thế kỷ XIX và lan rộng khắp Cuba qua các nhóm nghệ sỹ du ca.

Một trong những người chủ xướng, định hình phong cách đặc trưng cho Bolero là nghệ sỹ Pepe Sánchez (1856-1918), người đã sáng tác bản Bolero đầu tiên “Tristezas” (tạm dịch Những niềm đau) vào khoảng năm 1883. Các nghệ sĩ Cuba nổi tiếng của dòng nhạc là Omara Portuondo, Celia Cruz, Elena Burke, César Portillo và Ignacio Villa (Bola de Nieve). Các tượng đài bolero của Mexico là Agustín Lara, Javier Solís, Álvaro Carrillo và Armando Manzanero. Tác phẩm của họ làm mê đắm khán giả trong nhiều thập niên, góp phần tô điểm bức tranh âm nhạc toàn cầu.

bolero-la-di-san-van-hoa-phi-vat-the-cua-nhan-loai-1
Các nghệ sĩ Cuba chơi bolero trên đường phố. Ảnh: adncuba

Với đặc trưng giai điệu sang trọng, nên thơ, những bài Bolero khởi sinh từ Cuba nhanh chóng vượt biển tới Mexico. 

Sức hấp dẫn của dòng nhạc nhảy chậm buồn và lãng mạn giúp Bolero nhanh chóng lan tỏa và bén rễ sang các đảo quốc ở vùng Caribe, xuống đến các nước Nam Mỹ như Brazil, Argentina, Colombia, Chile, Venezuela, Ecuador, Bolivia… và cả Tây Ban Nha.

Thời hoàng kim của Bolero ở các nước Mỹ La Tinh bắt đầu từ những năm 1930, kéo dài liên tục trong suốt ba thập niên, với những nghệ sĩ nổi tiếng như Antonio Machin, cặp song ca Los Compadres (Cuba), nhóm nhạc Los Panchos, Los Hermanos Martínez Gil và Trío Tarácuri, Agustín Lara (Mexico), Lucho Gatica (Chile)…

Thời kỳ này, Bolero còn ảnh hưởng sang thế giới nói tiếng Anh, được trình diễn bởi nhiều nghệ sỹ Mỹ như Bing Crosby, Nat King Cole hay Frank Sinatra.

Có lẽ bản Bolero nổi tiếng nhất trong lịch sử chính là “Bésame mucho” (Hãy hôn em thật nhiều, 1941), được nữ nghệ sỹ người Mexico Consuelo Velásquez sáng tác vào năm cô chỉ mới 15 tuổi.

Bài hát tình tứ mà tình nhân dành cho nhau hóa ra lại là tâm sự của một cô bé chưa một lần được hôn, đang mơ mộng một cuộc tình lãng mạn.

Không chỉ phổ biến trong khu vực Mỹ Latinh, bài hát đến nay vẫn được rất nhiều ca sỹ tên tuổi trình diễn như Tona la Negra, Ruth Fermández, Luis Miguel. Thậm chí, “Bésame Mucho” từng xuất hiện trong album ghi âm năm 1962 “The Beatles Live at Star Club in Hamburg” của The Beatles.

Nghệ sĩ thường sử dụng bộ gõ, bộ hơi, piano và guitar khi chơi bolero. Các ca khúc bolero được truyền miệng rộng rãi, góp phần tăng tính phổ biến của dòng nhạc.

Một đặc điểm của Bolero là âm nhạc luôn đi kèm lời ca tình tứ, mượt mà, thể hiện tình cảm, quan niệm và tiêu chuẩn về cuộc sống nói chung và tình yêu nói riêng. Không thể nói đến Bolero mà không đề cập đến nội dung ca từ, với những cung bậc tình cảm được thể hiện qua ngôn ngữ mộc mạc, chân thành kết hợp cùng âm nhạc chậm buồn và lãng mạn.

bolero-la-di-san-van-hoa-phi-vat-the-cua-nhan-loai-3
Ảnh: Kaloian

Những câu chuyện tâm tình thường bắt đầu bằng một hồi ức, kỷ niệm riêng tư nhưng lại điển hình, chạm tới hoàn cảnh phổ biến của số đông người nghe. Ngoài câu chuyện tự sự về cuộc đời dâu bể, lẽ hợp tan, nhân tình thế thái, phần lớn các bản Bolero là nhạc tình, trong đó lời ca và tiếng nhạc chậm đều trở thành hai yếu tố cộng hưởng, dìu bước chân của đôi bạn nhảy trong khoảnh khắc riêng tư và không ngừng nghỉ.

Năm 2018, Bolero trở thành di sản văn hóa phi vật thể của Mexico, trong khi Cuba đưa nghệ thuật này vào danh sách quốc gia năm 2021. Nhạc Bolero ở Cuba thường mang nhịp 2/4, tốc độ khoảng 96-104 phách/phút (beats per minute). 

Điệu rumba chính là Bolero-son (nhanh hơn Bolero gốc một chút, tốc độ khoảng 104-128). Ngoài ra, điệu cha cha cha chính là Bolero-cha và mambo là điệu Bolero-mambo.

Nhạc Bolero ở Việt Nam gần như khác hẳn, khi thường viết ở tông thứ, nhịp 4/4 và chơi ở tốc độ khoảng 60 bpm (chậm hơn Bolero Cuba). Đây cũng là tốc độ các bài ca cổ, cải lương của người dân miền Nam.

UNESCO là Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc, thành lập năm 1945, thúc đẩy hòa bình và an ninh thế giới thông qua hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và thông tin. Tổ chức hiện có 194 quốc gia thành viên, trụ sở chính đặt tại Paris (Pháp). Với vai trò trung tâm của văn hóa và khoa học thế giới, UNESCO đã giúp thành lập, bảo vệ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.

Tính đến tháng 4/2023, có 676 Di sản Văn hóa Phi vật thể của 140 quốc gia, vùng lãnh thổ được UNESCO vinh danh. Việt Nam là 1 trong 10 quốc gia có số Di sản nhiều nhất được vinh danh, với 15 Di sản.